†™...[ Welcome to forum C15E-K13]...™†
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

†™...[ Welcome to forum C15E-K13]...™†

Chào mừng các bạn đến với diễn đàn của tập thể lớp C15E-K13.Trường cao đẳng nghề cơ điện xậy dựng tam điệp
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  

 

 Tuyển tập chuyện cảm động P1

Go down 
Tác giảThông điệp
K0y_C15E
†™..[Administrator]..™†
†™..[Administrator]..™†
K0y_C15E


Tổng số bài gửi : 136
Join date : 12/09/2010
Age : 32
Đến từ : Ninh Bình

Tuyển tập chuyện cảm động P1 Empty
Bài gửiTiêu đề: Tuyển tập chuyện cảm động P1   Tuyển tập chuyện cảm động P1 EmptyThu May 12, 2011 7:23 pm

1.Phải lòng em
Năm học lớp 10.

Ngồi trong lớp học Anh văn, tôi chăm chú nhìn cô bé cạnh bên. Em là người mà tôi luôn gọi là BẠN TỐT NHẤT. Tôi chăm chú nhìn mái tóc dài và mượt của em và ước gì em là của tôi. Nhưng em không xem tôi như thế và tôi biết điều đó. Sau buổi học, em đến gần và hỏi mượn tôi bài học em nghỉ hôm trước. Em nói: "Cảm ơn anh!" và hôn lên má tôi. Tôi muốn nói với em, tôi muốn cho em biết rằng tôi không muốn chỉ là bạn. Tôi yêu em nhưng tôi quá nhút nhát, tôi cũng không hiểu tại sao.

Năm học lớp 11.

Chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia là em. Em khóc và thút thít về cuộc tình vừa tan vỡ. Em muốn tôi đến với em, vì em không muốn ở một mình, và tôi đã đến. Khi ngồi cạnh em trên sofa, tôi chăm chú nhìn đôi mắt ướt nước của em và ước gì em là của tôi. Sau hai tiếng đồng hồ, cùng bộ phim của Drew Barrymore và ba túi khoai tây rán, em quyết định đi ngủ. Em nhìn tôi, nói: "Cảm ơn anh!" và hôn lên má tôi. Tôi muốn nói với em, tôi muốn cho em biết rằng tôi không muốn chỉ là bạn. Tôi yêu em nhưng tôi quá nhút nhát, tôi cũng không hiểu tại sao.

Năm cuối cấp.

Vào một ngày trước đêm khiêu vũ dạ hội mãn khóa, em bước đến tủ đựng đồ của tôi. "Bạn nhảy của em bị ốm", em nói, "Anh ấy sẽ không khỏe sớm được và em không có ai để nhảy cùng. Năm lớp 7, chúng mình đã hứa với nhau là nếu cả hai đứa đều không có bạn nhảy, chúng mình sẽ đi cùng nhau như NHỮNG NGƯỜI BẠN TỐT NHẤT." Và chúng tôi đã làm như thế. Vào đêm dạ hội, sau khi tiệc tan, tôi đứng ở bậc tam cấp trước cửa phòng em. Tôi chăm chú nhìn em khi em mỉm cười và nhìn bóng tôi trong đôi mắt lấp lánh của em. Tôi muốn em là của tôi nhưng em không nghĩ về tôi như thế và tôi biết điều đó. Rồi sau, em nói: "Em đã có giờ phút vui vẻ nhất, cảm ơn anh!" và hôn lên má tôi. Tôi muốn nói với em, tôi muốn cho em biết rằng tôi không muốn chỉ là bạn. Tôi yêu em nhưng tôi quá nhút nhát, tôi cũng không hiểu tại sao.

Ngày tốt nghiệp.

Từng ngày trôi qua, rồi từng tuần, từng tháng. Chớp mắt đã là ngày tốt nghiệp. Tôi ngắm nhìn hình dáng tuyệt vời của em nổi lên như một thiên thần trên sân khấu khi nhận bằng tốt nghiệp. Tôi muốn em là của tôi nhưng em không xem tôi như thế và tôi biết điều đó. Trước khi mọi người trở về nhà, em tiến về phía tôi trong áo khoác và mũ, khóc khi tôi ôm em. Rồi sau, nhấc đầu lên khỏi vai tôi, em nói: "Anh là BẠN TỐT NHẤT của em, cảm ơn anh!" và hôn lên má tôi. Tôi muốn nói với em, tôi muốn cho em biết rằng tôi không muốn chỉ là bạn. Tôi yêu em nhưng tôi quá nhút nhát, tôi cũng không hiểu tại sao.

Vài năm sau.

Giờ đây, tôi đang ngồi trong băng ghế dài trong nhà thờ. Cô bé ấy đang làm lễ kết hôn. Tôi nhìn em khi em nói: "Tôi hứa!" và bắt đầu một cuộc sống mới, với một người đàn ông khác. Tôi muốn em là của tôi nhưng em không xem tôi như thế và tôi biết điều đó. Nhưng trước khi lên xe đi, em đến gần tôi và nói: "Anh đã đến, cảm ơn anh!" và hôn lên má tôi. Tôi muốn nói với em, tôi muốn cho em biết rằng tôi không muốn chỉ là bạn. Tôi yêu em nhưng tôi quá nhút nhát, tôi cũng không hiểu tại sao.

Lễ tang.

Đã nhiều năm trôi qua, tôi nhìn xuống chiếc quan tài chứa bên trong cô bé đã từng là BẠN TỐT NHẤT của mình. Trong buổi lễ, người ta đã tìm thấy quyển nhật ký của em trong suốt những năm trung học. Và đây là những gì em viết:

"Tôi chăm chú nhìn anh và ước gì anh là của tôi nhưng anh không xem tôi như thế và tôi biết điều đó. Tôi ước anh nói với tôi rằng anh yêu tôi. Tôi ước mình cũng có thể làm được điều đó… Tôi chỉ nghĩ một mình và khóc.

Em yêu anh em yêu anh em yêu anh…"

2.Mọi việc không phải luôn như chúng ta thấy
Hai thiên thần đi chu du duới hình dạng của những người nghèo khó, họ dừng chân ở một ngôi nhà khá giả. Hai thiên thần xin gia đình kia cho ở lại nhờ qua đêm, nhưng gia đình đó rất khiếm nhã, tỏ vẻ khó chịu và bảo hai thiên thần vào nhà kho mà ngủ. Khi hai thiên thần dọn dẹp chỗ ngủ trên sàn lạnh, thiên thần lớn tuổi hơn trông thấy một lỗ trên sàn nhà và ra tay sửa lại nó. thiên thần nhỏ hơn hỏi tại sao, thiên thần lớn trả lời : Mọi việc không phải luôn luôn như chúng ta thấy !

Đêm hôm sau, hai thiên thần lại dừng chân ở một gia đình nghèo và xin ở lại qua đêm. Hai vợ chồng bác nông dân túng thiếu về tài sản nhưng có thừa lòng hiếu khách nên đã mời hai thiên thần bữa ăn đạm bạc và mời họ ngủ trên giường.

Sáng sớm hôm sau, hai thiên thần thấy hai vợ chồng bác nông dân buồn rười rượi. Con bò duy nhất cung cấp sữa cho gia đình họ đã chết. Thiên thần nhỏ tuổi hết sức sửng sốt về việc đó và kết tội : "Gia đình thứ nhất rất giàu có thì người lại giúp họ. Gia đình này nghèo khó và hiếu khách thì ngài lại bắt con bò của họ phải chết".

"Mọi việc không phải luôn như chúng ta thấy" - Thiên thần lớn chỉ nói vậy.

Khi hai thiên thần lại tiếp tục lên đuờng, thiên thần lớn mới nói : "Khi chúng ta ở trong nhà kho của gia đình giàu có, ta để ý thấy có một kho vàng dưới cái lỗ ở nền nhà kho, nhưng chủ nhà lại thô lỗ và keo kiệt, nên ta hàn cái lỗ đó lại, họ sẽ không bao giờ tìm đuợc vàng. Còn tối qua khi chúng ta đang ngủ trên giường nhà bác nông dân nghèo, thần chết đã tới và nói phải đem vợ bác nông dân đi. Ta đã đưa con bò của nhà bác nông dân ra thay thế, và may mắn là thần chết đã chấp nhận con bò. Mọi thứ không phải luôn như chúng ta thấy !"

Mọi thứ không phải luôn như chúng ta thấy.. Không phải điều gì trên đời này cũng có thể giải thích rõ ràng, và không phải cái gì chúng ta cũng có thể hiểu theo đúng nghĩa của nó. Không
chỉ có lợi mà điều đó đôi khi sẽ mang lại phiền toái không ít cho chúng ta...
3. Phép màu giá bao nhiêu
Một cô bé tám tuổi nghe cha mẹ mình nói chuyện về đứa em trai nhỏ. Cô bé chỉ hiểu rằng em mình đang bị bệnh rất nặng và gia đình cô không còn tiền. Chỉ có một cuộc phẫu thuật rất tốn kém mới cứu sống được em trai cô bé, và cha mẹ em không tìm ra ai để vay tiền. Do đó, gia đình em sẽ phải dọn đến một căn nhà nhỏ hơn vì họ không đủ khả năng tiếp tục ở căn nhà hiện tại sau khi trả tiền bác sĩ.
Cô bé nghe bố nói với mẹ bằng giọng thì thầm tuyệt vọng: “Chỉ có phép màu mới cứu sống được Andrew”. Thế là cô bé vào phòng mình, kéo ra một con heo đất được giấu kỹ trong tủ. Em dốc hết đống tiền lẻ và đếm cẩn thận.

Rồi cô bé lẻn ra ngoài bằng cửa sau để đến tiệm thuốc gần đó. Em đặt toàn bộ số tiền mình có lên quầy.

Người bán thuốc hỏi: “Cháu cần gì?”

Cô bé trả lời: “Em trai của cháu bệnh rất nặng và cháu muốn mua phép màu.”

- Cháu bảo sao? – Người bán thuốc hỏi lại.

- Em cháu tên Andrew. Nó bị một căn bệnh gì đó trong đầu mà ba cháu nói chỉ có phép màu mới cứu được nó. Phép màu giá bao nhiêu ạ?

- Ở đây không bán phép màu, cháu à. Chú rất tiếc – Người bán thuốc nở nụ cười buồn và tỏ vẻ cảm thông với cô bé.

- Cháu có tiền trả mà. Nếu không đủ, cháu sẽ cố tìm thêm. Chỉ cần cho cháu biết giá bao nhiêu?

Trong cửa hàng còn có một vị khách ăn mặc thanh lịch. Sau khi nghe câu chuyện, ông cúi xuống hỏi cô bé: “Em cháu cần loại phép màu gì?”

- Cháu cũng không biết nữa – Cô bé trả lời, rơm rớm nước mắt. “Nhưng em cháu rất cần phép màu đó. Nó bị bệnh nặng lắm, mẹ cháu nói rằng nó cần được phẫu thuật, và hình như phải có thêm loại phép màu gì đó nữa mới cứu được em cháu. Cháu đã lấy ra toàn bộ số tiền để dành của mình để đi tìm mua phép màu đó.”

- Cháu có bao nhiêu? – Vị khách hỏi. Cô bé trả lời vừa đủ nghe: “Một đô la mười một xu.”

Người đàn ông mỉm cười: “Ồ! Phép màu mà bác có vừa đúng một đô la mười một xu!”.

Một tay ông cầm tiền của cô bé, tay kia ông nắm tay em và nói: “Dẫn bác về nhà cháu nhé. Bác muốn gặp em trai và cha mẹ cháu. Để xem bác có loại phép màu mà em cháu cần không.”

Người đàn ông thanh lịch đó là Bác sĩ Carlton Armstrong, một phẫu thuật gia thần kinh tài năng. Ca mổ được hoàn thành mà không mất tiền, và không lâu sau Andrew đã có thể về nhà, khỏe mạnh.

Mẹ cô bé thì thầm: “Mọi chuyện diễn ra kỳ lạ như có một phép màu. Thật không thể tưởng tượng nổi. Thật là vô giá!”. Cô bé mỉm cười. Em biết chính xác phép màu giá bao nhiêu. Một đô la mười một xu, cộng với niềm tin chân thành của một đứa trẻ, và lòng tốt của người bác sĩ.
4/ Steve - Frank
Có bao giờ bạn tự hỏi khi cho đi, chúng ta sẽ nhận được gì? Tôi sẽ trả lời giúp bạn rằng hãy cho đi những gì có thể và bạn sẽ nhận được những điều tưởng như không thể!!!

Dịp năm mới này, cậu bé Frank Wilson rất lặng lẽ. Steve, anh trai của Frank, vừa mất trong một tai nạn giao thông. Chiều cuối năm ấy, Frank xin phép bố mẹ được mang đồ chơi đến nhà cậu bạn thân để rủ cậu ấy chơi cùng. Cậu bỏ tất cả "gia tài" vào chiếc xe cút kít nhỏ, rồi cậu kéo tới nhà cậu bạn. Nhưng thật không may cho Frank, là cậu bạn thân lại không có nhà.

Frank hì hụi kéo xe cút kít về nhà. Trên đường về, cậu thấy rất nhiều gia đình đã trang trí nhà cửa rực rỡ mừng năm mới. Thế nên, Frank sững lại khi nhìn qua cửa sổ một ngôi nhà nhỏ, thấy một phụ nữ đang nồi khóc bên chiếc lò sưởi nguội lạnh. Chiếc lò sưởi khiến Frank nhớ đến Steve. Những ngày lạnh, hai anh em thường ngồi chơi trước lò sưởi ấm áp, nói với nhau đủ thứ chuyện.
Đứng lặng hồi lâu, rồi Frank gõ cửa ngôi nhà nhỏ.
Khi ra mở cửa, nhìn thấy Frank và chiếc xe cút kít đầy đồ chơi, bà nghĩ rằng cậu bé đang đi quyên góp quà làm từ thiện.
-Bác chẳng có quà cho cháu đâu... thậm chí lũ trẻ nhà bác cũng không có nữa...-Người phụ nữ nói mà giọng vẫn nghẹn ngào.
-Cháu không tới xin quà đâu ạ! Bác hãy chọn bất kỳ món đồ chơi nào bác thích tặng cho các con bác - Frank nói.
-Thật à? - Người phụ nữ reo lên, ngạc nhiên - Cảm ơn cháu nhiều lắm.
Bà chọn chiếc máy bay đồ chơi, bộ đồ xếp hình. Khi bà chọn chiếc đèn pin hình con cá, Frank suýt kêu lên. Đó là món đồ chơi mà anh Frank từng rất thích. Nhưng cậu im lặng khi người phụ nữ thì thầm: "Bé út nhà bác chắc sẽ thích món quà này lắm đây!".
-Cháu tên gì vậy? - Cuối cùng, người phụ nữ hỏi.
-Steve ạ - Frank đáp.
Và Frank rời khỏi ngôi nhà ấy với niềm vui, điều cậu chưa hề có từ ngày anh trai mất. Frank tiếp tục ngó qua các ô cửa sổ, gõ cửa những ngôi nhà đơn sơ, mà cậu cảm thấy có lẽ trẻ con trong đó chẳng có nhiều quà. Thế rồi Frank đã tặng toàn bộ chỗ đồ chơi trong xe cút kít. Thậm chí, cả chiếc áo choàng đang mặc cậu cũng tặng cho một cậu bé run bắn vì lạnh ở góc phố.
Và bây giờ thì Frank kéo xe cút kít về nhà, vừa lạnh vừa lo lắng. Làm sao để giải thích cho bố mẹ về số đồ chơi đã biến mất?
-Đồ chơi của con đâu cả rồi? - Bố hỏi ngay khi Frank bước vào nhà.
-Con...đem tặng cả rồi - Frank lúng túng.
-Tặng cả rồi? - Bố ngạc nhiên. Ông định nói thêm gì đó, nhưng rồi chỉ nói - Được rồi, Frank, bố sẽ không mắng con đâu... Nhưng sẽ có một thời gian dài con sẽ không có đồ chơi đâu...
Frank thở dài...

***

Sáng sớm hôm sau, khi xuống phòng khách, Frank thấy bố mẹ đang cùng ngồi nghe radio. Bản tin phát đi thật lạ: "Câu chuyện tuyệt vời nhất mà chúng tôi thu thập được sáng nay là từ khu phố nghèo Flats. Một cậu bé mồ côi đã được tặng một chiếc áo choàng kẻ, một bé gái đã nhận được rất nhiều mứt, và nhiều gia đình khác nói rằng con cái của họ đã rất vui mừng khi nhận được quà từ một cậu bé khoảng 12-13 tuổi, tự xưng tên là Steve. Không ai biết đó có phải là tên thật của cậu không,hoặc là cậu ở đâu tới, nhưng trẻ em ở khu phố Flats thật sự đã có rất nhiều niềm vui".
Frank chợt cảm thấy bàn tay của bố đặt ấm áp trên vai mình.

-Bố rất tự hào về con, Steve-Frank.
5/ Món quà lớn nhất
Khi lái xe trên đường cao tốc, mẹ tôi đã “chuẩn bị tinh thần” cho chúng tôi về những gì mà chúng tôi sắp nhìn thấy. Một bà cụ đang hấp hối vì bệnh ung thư, và mẹ tôi đã đăng ký là cả gia đình tôi tình nguyện tới giúp đỡ việc nhà cho bà cụ.
- Bà Annie bị một khối u làm cho mặt bà bị biến dạng - Mẹ nhấn mạnh.
Mẹ đã kể cho bà Annie nghe rất nhiều về chúng tôi, và bà Annie cũng từng nói chuyện với tôi qua điện thoại. Có vẻ bà rất vui khi tôi nói chuyện với bà. Nhưng bà nói:
- Rất nhiều trẻ con đều sợ khuôn mặt bà, bà sẽ hiểu nếu cháu không muốn đến thăm bà.
Tôi đã đấu tranh rất nhiều khi mẹ nói sẽ đưa chị em tôi tới nhà bà Annie. Mẹ bảo chúng tôi phải hiểu rằng những người bị bệnh hoặc khuyết tật cũng giống như những người bình thường khác - cảm xúc của họ cũng có thể bị tổn thương.
- David - Mẹ nói với cậu em 5 tuổi của tôi - Con có nhớ bộ phim về cậu bé có khuôn mặt bị biến dạng không?
- Có, mẹ ạ - David đáp, trong khi tôi hơi rùng mình - Con hiểu rồi mà.
- Khối u trông như thế nào ạ? - Tôi rụt rè hỏi mẹ. Có lẽ tôi không dũng cảm như David.
- Nó làm cho da mặt bà Annie bị co lại và bà nói chuyện rất khó khăn - Mẹ đáp - Con sẽ thấy khi con gặp bà ấy. Nhưng không có gì phải sợ. Chỉ có điều, các con phải nhớ rằng đừng có nhìn chăm chăm vào bà Annie. Đừng có nhìn như thế.
- Các con đã sẵn sàng chưa? - Mẹ hỏi lại khi dừng xe trước cửa nhà Annie.
- Sẵn sàng rồi ạ! - David đáp mạnh mẽ như trong quân đội - Con không sợ đâu, mẹ!
Còn tôi thì gật gật đầu, hơi co người lại một chút.
Chúng tôi bước vào phòng khách, nơi bà Annie đang ngồi trên ghế bành. Trên bàn, trước mặt bà là rất nhiều thư và thiệp. Tôi chững lại một chút, trông bà Annie đáng sợ hơn tôi tưởng - đáng sợ hơn cả trong phim “Mặt nạ” mà tôi từng xem. Mẹ đi đằng sau, nắm lấy vai tôi.
Bà Annie ngẩng lên nhìn chúng tôi, và tôi thấy khuôn mặt nhăn nheo của bà sáng bừng lên:
- Các cháu đến đấy à, bà mừng quá!
Tiếng nói của bà Annie rất khó nghe, và khi bà nói, miệng bà càng co lại, trông rất kỳ lạ.
Rồi một điều kỳ diệu xảy ra. David chạy ào lại chỗ ghế bà Annie, vòng tay ôm lấy bà và hôn chụt vào gò má nhăn thành từng nếp. Vừa mỉm cười, David vừa nhìn vào mắt bà Annie và nói:
- Cháu cũng rất vui được gặp bà. Bà có khoẻ không?
Ngay khi đó, tôi bỗng cảm thấy mình bé nhỏ hơn David rất nhiều. Và tôi cũng chạy lại chỗ bà Annie, ôm bà thật chặt.
Đó là khi tôi cảm thấy má tôi hơi ươn ướt dù không hề khóc. Nước mắt của bà Annie. Lúc đó, tôi biết rằng tôi và David đã tặng bà Annie một món quà lớn hơn nhiều so với chuyện giúp đỡ việc nhà. Món quà lớn nhất mà một người lớn có thể nhận được: một cái ôm thật chặt của một đứa trẻ.
6. Khi người ta gửi đi một nụ cười
Cô gái cười với một người xa lạ rầu rĩ, nụ cười làm cho anh ta cảm thấy phấn chấn hơn.

Anh nhớ đến sự tử tế của một người bạn cũ và viết cho người ấy một lá thư cảm ơn.

Người bạn này vui sướng vì nhận được thư của người bạn cũ lâu ngày không gặp đến nỗi, sau bữa trưa anh boa một món tiền lớn cho chị hầu bàn.

Chị hầu bàn ngạc nhiên vì món tiền boa quá lớn, đã quyết định mang tất cả đi mua xổ số. Và trúng số.

Ngày hôm sau chị đi nhận giải và cho một người ăn mày trên phố một ít tiền lẻ.

Người ăn mày rất biết ơn vì đã hai ngày nay anh ta chẳng được ăn gì. Sau bữa tối anh ta trở về căn phòng tối tăm của mình.

Trên đường về, anh ta thấy một chú chó con đang rét run cầm cập, anh mang nó về để sưởi ấm cho nó. Chú chó rất vui mừng vì được cứu khỏi cơn bão tuyết sắp đến gần.

Ðêm ấy, trong khi mọi người đang ngủ say thì ngôi nhà bốc cháy, chú chó con sủa róng riết.

Chú sủa cho đến khi đánh thức tất cả mọi người trong nhà dậy và cứu tất cả mọi người thoát chết.

Một trong những chú bé được cứu thoát đêm ấy sau này trở thành bác sĩ tìm ra một loại vắc-xin chữa khỏi một căn bệnh vô cùng nguy hiểm cho loài người.
7. Âm mưu ngọt ngào
Kevin học bảng chữ cái không nhanh như những bạn khác. Cậu bé cũng không bao giờ chiến thắng trong các cuộc chạy thi ở trường. Nhưng đó là một cậu bé có nụ cười tươi tắn và trái tim rộng mở.
Thầy Randy gom “hội con trai” để lập đội bóng rổ. Kevin luyện tập chăm hơn bất kỳ ai khác. Trong khi các cậu bé khác tập rê bóng và chuyền bóng, thì Kevin chăm chú tập ném bóng vào rổ. Thỉnh thoảng lắm, bóng mới rơi vào rổ! Mỗi khi điều này may mắn xảy ra, Kevin nhảy nhót loạn xạ và hét to: “Xem em này, huấn luyện viên ơi!”.
Giá như tôi có thể kể rằng đội bóng của Kevin đã chơi rất tốt. Nhưng thực ra, cả mùa bóng đó, đội Kevin không thắng một trận nào - trừ một trận khi trời ngập tuyết và các đối thủ không đến. Cuối mùa bóng, đội bóng của Kevin, đã xếp bét bảng thì chớ, lại còn chạm trán với đội nhất bảng. Những cậu bé này chưa bao giờ thua một trận nào suốt mùa giải.
Trận đấu diễn ra đúng như dự đoán, gần vào cuối trận thì đội của Kevin đã bị đội kia dẫn tới 30 điểm. Lúc đó, một cậu bé đội Kevin đề nghị tạm dừng trận để hội ý. Cậu bé ra nói với thầy Randy:
- Huấn luyện viên ơi, đây là trận cuối cùng của chúng ta mà Kevin vẫn chưa ném vào rổ được một lần nào. Em nghĩ chúng ta nên để cậu ấy ném trúng rổ một lần.
Huấn luyện viên Randy và cả đội đồng ý. Bóng bắt đầu được chuyền cho Kevin. Kevin ném thật mạnh - và trượt. Cầu thủ số 17 của đội bạn giành được bóng, ghi bàn và kiếm điểm. Nhưng một chút sau, đồng đội lại chuyền bóng cho Kevin. Cậu bé lại ném - và lại trượt. Cứ như vậy.
Nhưng dường như đến lúc đó, đội bóng nhất bảng đã phát hiện chuyện gì đang xảy ra, và khi họ giành được bóng lần tiếp theo, họ ném cho... Kevin! Kevin lại ném - và trượt. Nhưng bây giờ, lần nào bóng cũng tới tay Kevin để cậu ném vào rổ.
Rất nhiều khán giả, đều là học sinh trong trường, bắt đầu hò reo: “Kevin! Kevin!” - thậm chí còn hát vang. Huấn luyện viên Randy chắc chắn rằng trận đấu lẽ ra phải hết giờ rồi. Ông nhìn đồng hồ trên bàn người trọng tài tính giờ. Nó đã bị bấm dừng lại khi đồng hồ đếm ngược thời gian của trận đấu còn 3 giây, và ông trọng tài cũng đứng lên cổ vũ: “Kevin! Kevin!”. Dường như cả thế giới đã dừng lại vì Kevin.
Còn Kevin thì cứ ném, cho đến khi, cuối cùng, một quả bóng bay theo đường vòng rất kỳ lạ rồi... rơi vào rổ! Tất cả các cầu thủ và khán giả reo hò ầm ỹ! Mọi người đều đứng dậy vỗ tay như thể có ai đó vừa giành một giải vô địch thế giới. Kevin nhảy bật lên trong không khí và hét to: “Thắng rồi! Thắng rồi!”. Cả đội bóng vây lấy Kevin, còn vị trọng tài bấm cho đồng hồ chạy tiếp và tuyên bố trận đấu hết giờ.
Ngày hôm đó, mọi người đều chiến thắng. Vì tất cả đều đã tham gia vào một “âm mưu” ngọt ngào của sự tử tế, một hành động đơn giản của tình thương và sự thông cảm. Và chắc chắn tất cả mọi người đều vui.
8. Chiếc lá cuối cùng
Trong một khu nhỏ ở phía Tây quảng trường Washington, đường phố chạy ngoằn ngoèo và tự cắt thành những mảnh nhỏ gọi là "biệt khu". Nhũng "biệt khu" này tạo thành những góc và đường lượn kỳ lạ. Mỗi con phố tự cắt một hoặc hai lần. Một dạo, có nghệ sĩ đã khám phá ra khả năng hữu ích của con phố này. Thử hình dung, một người khi thu hoá đơn tiền sơn, tiền giấy và tiền vải vẽ đi qua phố ấy, bỗng nhiên nhận thấy mình quay lại mà chưa thu được lấy một xu nào.

Vậy nên chẳng mấy chốc cánh nghệ sĩ đổ xô dến ngôi làng Greenwich cổ kính kì quặc đó, săn tìm những cửa sổ phía Bắc, những đầu hồi thế kỉ thứ mười tám và những căn phòng áp mái kiểu Hà Lan với giá thuê rẻ. Rồi họ nhập khẩu vài cái xô chậu đúc bằng hợp kim chì và thiếc, một hoặc hai cái bếp lẩu từ đại lộ Thứ Sáu rồi hình thành nên "khu hoạ sĩ".

Áp mái tòa nhà gạch ba tầng thấp tịt, Sue và Johnsy có một xưởng vẽ. Johnsy là tên gọi thân mật của Joanna. Một người từ Maine đến, còn người kia đến từ California.

Họ gặp nhau tại Table d'hôte trong tiệm Delmonico trên phố Thứ Tám và nhận thấy có cùng sở thích về nghệ thuật, về món salad rau diếp, về kiểu ống tay áo ngoài rộng và hợp nhau đến nỗi kết quả là một xưởng vẽ chung ra đời.

Dạo ấy là vào tháng Năm. Tháng Mười Một, gã khách lạ chưa hề được thấy mặt, lạnh lẽo, mà bác sĩ gọi là gã Viêm Phổi, rình rập đến khu họa sĩ, thỉnh thoảng vươn những ngón tay lạnh buốt của mình chạm vào ai đó. Khắp mạn Ðông, kẻ hủy diệt ấy hùng dũng bước đi, quật ngã hàng chục nạn nhân; nhưng khi qua những "biệt khu" đầy rêu và những con phố hẹp loằng ngoằng, bàn chân gã bước đi dè dặt.

Ngài Viêm Phổi không thuộc hàng chính nhân quân tử. Một phụ nữ mảnh mai, máu kiệt dần bởi những cơn gió Tây miền California khó có thể là đối thủ chính đáng của gã đần có nắm đấm đỏ, thở dốc, già nua kia. Nhưng gã vẫn quật ngã Johnsy; cô nằm, hầu như không động đậy trên chiếc giường sắt sơn của mình, nhìn qua những ô kính cửa sổ nhỏ kiểu Hà Lan lên bức tường trống trơn của ngôi nhà gạch đối diện.

Sáng nọ, ông bác sỹ có đôi mày rậm, đốm bạc gọi Sue ra hành lang.

- Ta có thể nói cơ hội sống của cô ấy chỉ còn lại một phần mười, - ông nói khi lắc nhiệt kế để thuỷ ngân hạ xuống. - Nhưng cái phần đó còn phụ thuộc vào việc cô ấy có muốn sống nữa hay không. Cái kiểu con người cứ sắp hàng bên cạnh ông chủ nhà hòm như thế thì thuốc men cũng chẳng có nghĩa lí gì. Cô bạn bé nhỏ của cô đã nghĩ rằng mình sẽ không bình phục nữa. Cô ấy có điều gì vướng mắc trong đầu không?

- Bạn ấy - bạn ấy mong ước có ngày vẽ được vịnh Naples, - Sue đáp.

- Vẽ ư? Hừ! Cô ấy không có điều gì đáng để bận tâm gấp bội lần hơn ư? - một chàng trai, chẳng hạn?

- Một chàng trai à? - Sue nói, cao giọng như thể tiếng đàn chợt buông dây. - Một người đàn ông thì tốt ư? Nhưng, không, thưa bác sỹ, không có chuyện đó đâu.

- À, vậy ra chỉ tại yếu thôi, - bác sỹ nói. - Tôi sẽ cố hết sức chữa chạy bằng tất cả vốn liếng y học của mình. Nhưng một khi bệnh nhận bắt đầu tính có bao nhiêu xe dự tang lễ của mình thì tôi phải trừ đi năm mươi phần trăm công hiệu cứu chữa của thuốc men. Nếu cô có thể làm cho cô ấy hỏi về những mốt mới mùa đông, tay áo chẳng hạn, thì tôi chắc trong mười phần cô ấy đã khá lên hai thay vì một như bây giờ.

Sau khi bác sĩ ra về, Sue vào phòng làm việc, khóc ướt đẫm cả chiếc khăn Nhật. Rồi cô bình tĩnh mang bảng vẽ vào phòng Johnsy, miệng huýt sáo một điệu nhạc Jazz.

Johnsy nằm, quay mặt về phía cửa sổ, tấm chăn trên người hầu như không gợn vết nhăn nào. Sue ngừng huýt sáo bởi tưởng bạn đã ngủ.

Cô dựng bảng vẽ và bắt đầu vẽ bức minh họa cho câu chuyện tạp chí bằng bút sắt. Những họa sĩ trẻ phải lát con đường đến nghệ thuật bằng các bức tranh minh họa cho những truyện trên tạp chí do các cây bút trẻ đã lát xuống để đến với văn học.

Khi Sue đang vẽ phác chiếc quần dài cưỡi ngựa trang nhã và chiếc kính một mắt cho nhân vật chính của truyện, anh chàng cao bồi Idaho, thì cô nghe có tiếng thì thầm lặp đi lặp lại nhiều lần. Cô bước vội đến bên giường.

Mắt Johnsy mở to. Cô đang nhìn ra cửa sổ và đếm - đếm lùi lại.

- Mười hai, - cô đếm, ngừng một lát, - "mười một", rồi "mười", "chín"; rồi gần như cùng một lúc "tám" và "bảy".

Sue lo lắng nhìn ra ngoài của sổ. Ðếm cài gì ở ngoài đó? Trong tầm mắt chỉ có một cái sân trơ trụi, ảm đạm và bức tường trống trơn của ngôi nhà gạch cách chừng sáu mét. Một dây trường xuân già, rất già, gốc cong queo và mục nát, leo đến giữa bức tường gạch. Hơi thở lạnh lẽo của mùa thu đã bứt lá của nó ra khỏi thân cho đến lúc chỉ còn trơ đám cành cây gần trụi hết lá bám vào những viên gạch nẻ sứt.

- Cái gì vậy hả bạn? - Sue hỏi.

- Sáu, - Johnsy nói như thể là tiếng thì thào. - Giờ thì chúng rụng nhanh hơn. Ba hôm trước phải gần cả trăm. Nó làm đầu mình phát đau lên khi đếm. Nhưng bây giờ thì dễ rồi. Một chiếc nữa đã đi. Giờ chỉ còn năm.

- Năm cái gì hả bạn? Nói cho Sudie của bạn biết đi.

- Những chiếc lá. Trên cây trường xuân. Khi chiếc cuối cùng rơi, chắc mình cũng ra đi. Mình biết điều đó đã ba ngày nay. Bác sĩ không nói gì với bạn sao?

- Ồ, mình không nghe những chuyện nhảm nhí như vậy đâu, - Sue trách với vẻ ân cần quả quyết. - Mấy chiếc lá trường xuân già đó thì có liên quan gì đến việc bạn bình phục kia chứ? Tại bạn quá yêu các dây leo ấy, thế đấy, bạn hư quá. Ðừng có nói dại nữa! À, sáng nay bác sỹ bảo mình rằng cơ hội bình phục nhanh của bạn là - để mình nhớ chính xác lời ông ấy - ông nói cơ hội chiếm đến chín phần mười! À, đấy là cơ hội gần chắc chắn như khi chúng ta đi ô tô hay đi bộ vượt qua một tòa nhà mới ở New York. Bây giờ hãy cố ăn tí cháo và để Sudie quay lại với bức vẽ, có thế thì bạn ấy mới có thể bán cho người biên tập rồi mua rượu vang port cho cô bé ốm yếu của bạn và lườn lợn cho cái bụng háu ăn của bạn ấy.

- Bạn không cần phải mua rượu vang nữa đâu, - Johnsy nói, mắt vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ. - Một chiếc nữa rơi rồi. Không, mình không muốn ăn cháo tí nào. Chỉ còn bốn chiếc lá. Mình muốn xem chiếc cuối cùng rụng trước khi trời tối. Rồi mình cũng sẽ đi theo.

- Bạn Johnsy yêu quý ơi, - Sue cúi người xuống nói, - bạn có hứa với mình là sẽ nhắm mắt và không nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi mình làm xong việc không? Mình phải nộp mấy bức này vào ngày mai. Mình cần ánh sáng, nếu không thì mình đã buông rèm xuống.

- Bạn không thể vẽ ở phòng khác sao? - Johnsy hờ hững hỏi.

- Mình thích ở đây, bên bạn, - Sue đáp. - Hơn nữa mình không muốn bạn cứ dán mắt vào những chiếc lá trường xuân ngớ ngẩn ấy.

- Khi nào bạn xong thì báo ngay cho mình nhé, - Johnsy nói, nhắm mắt lại và nằm im, tái nhợt như một pho tượng đổ, - bởi vì mình mình muốn xem chiếc lá cuối cùng rụng. Mình mệt mỏi vì chờ đợi. Mình rã rời vì suy nghĩ. Mình muốn tháo tung mọi thứ ràng buộc và dong buồm lướt đi, lướt đi tựa như một trong những chiếc lá mòn mỏi đáng thương kia.

- Hãy cố ngủ đi, - Sue nói. - Mình phải mời ông lão Behrman lên làm mẫu bức người thợ mỏ già khắc khổ. Mình sẽ đi một chốc thôi. Ðừng cố di chuyển cho đến khi mình quay lại.

Ông lão Behrman là họa sĩ sống ở tầng trệt bên dưới nhà họ. Lão đã ngoài sáu mươi, có bộ râu xoăn như bức tượng Moses của Michael Angelo, lượn như tóc từ đầu của thần Satyr xuống thân hình một con quỷ nhỏ. Behrman không thành công trong nghệ thuật. Ðã bốn mươi năm múa bút mà lão chưa hề chạm tới được gấu áo Nữ thần của mình. Lão luôn ấp ủ ý định vẽ một kiệt tác, nhưng vẫn chưa bắt đầu. Suốt nhiều năm nay, lão chẳng vẽ được gì ngoại trừ thỉng thoảng làm mấy đường quảng cáo hay chào hàng. Lão kiếm được ít tiền bằng cách ngồi mẫu cho mấy nghệ sĩ trẻ trong khu "hoạ sĩ" ấy, những người không đủ tiền thuê người mẫu chuyên nghiệp. Lão uống gin quá độ, nhưng vẫn nói về kiệt tác sắp vẽ của mình. Còn những lúc khác, lão là một lão già nhỏ thó hung tợn, luôn chế nhạo tính nhu mì của bất kì ai và luôn tự xem mình như loại khuyển đặc biệt, canh phòng bảo vệ hai nghệ sĩ trẻ ở xưởng vẽ bên trên.

Sue tìm thấy lão Behrman nồng nặc mùi rượu dâu nặng trong cái hang mờ tối của lão bên dưới. Trong góc phòng, một tấm vải trống, căng sẵn trên giá, vẫn đợi suốt hai mươi lăm năm nay chờ nét vẽ đầu tiên của bức kiệt tác. Cô kể cho lão nghe ý nghĩ lạ lùng của Johnsy và cái cách bạn ấy thực sự đuối đi, sắp lìa tung như một chiếc lá bay xa khi sự níu giữ mỏng manh của bạn ấy với thế giới này ngày một yếu hơn.

Lão Behrman, đôi mắt đỏ ngấn lệ, oang oang biểu lộ sự khinh thường và công kích của mình trước chuyện tưởng tượng ngu ngốc như thế.

- Chà! Trên thế gian này còn có người ngốc đến độ muốn chết vì những chiếc lá lìa xa cái dây leo dớ dẩn kia ư? Ta chưa bao giờ nghe chuyện nào như thế cả. Không, ta sẽ không ngồi làm mẫu lão già đần độn khắc khổ ù lì của cô đâu. Sao cô lại để cái chuyện ngu ngốc ấy chui vào óc của cô ta? Ôi, tội nghiệp thay cho Johnsy bé bỏng.

- Bạn ấy ốm yếu lắm, - Sue nói, - và sốt đã làm đầu óc bạn ấy đâm bệnh hoạn, đầy rẫy những ý tưởng hoang đường. Thôi được, bác Behrman à, nếu bác không ngồi mẫu cho cháu thì cũng chẳng sao. Nhưng cháu nghĩ bác là một lão già cục cằn, ba hoa, lọm khọm.

- Cô đúng là đồ đàn bà! - lão Behrman hét lên. - Ai bảo ta không ngồi mẫu? Ði nào. Ta đi cùng cô. Ta đã nói suốt nửa tiếng đồng hồ rằng ta sẽ làm mẫu rồi cơ mà. Lạy Chúa! Ðây không phải là nơi để một người tử tế như cô Johnsy nằm dưỡng bệnh. Hôm nào đó ta sẽ vẽ kiệt tác đó và tất cả chúng ta sẽ giã từ chốn này. Lạy Chúa! Ðúng đấy.

Johnsy đang ngủ khi hai người lên gác. Sue kéo rèm xuống che kín cửa sổ rồi ra hiệu cho lão Behrman sang phòng bên. Ở đấy, họ lo lắng nhìn ra cửa sổ, về phía cây trường xuân. Rồi hai người im lặng nhìn nhau một lát. Một cơn mưa lạnh, dai dẳng lẫn với tuyết đang rơi. Vận chiếc sơ mi xanh cũ, Behrman ngồi trên cái ấm lật úp, giả làm hòn đá trong tư thế người thợ mỏ khắc khổ.

Sáng hôm sau, Sue thức giấc sau khi chợp mắt được một tiếng đồng hồ, cô bắt gặp đôi mắt mở to, vô cảm của Johnsy nhìn trân trân vào tấm rèm xanh nơi cửa sổ.

- Kéo hộ nó lên đi; mình muốn nhìn, - cô thì thào giục.

Sue miễn cưỡng nghe lời.

Nhưng, kìa! Sau một đêm mưa quật, gió mạnh lồng lộng không ngớt, trên bức tường gạch kia chiếc lá trường xuân vẫn đứng nương vào vách. Ðấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn xanh thẫm nơi gần cuống lá, nhung quanh rìa đã ngả màu vàng sẫm và hư hoại; chiếc lá vững chãi bám chắc vào cành cây cách mặt đất chừng sáu mét.

- Ðấy là chiếc lá cuối cùng, - Johnsy nói. - Mình tưởng chắc nó đã rơi đêm qua rồi. Mình nghe tiếng gió. Hôm nay chắc nó sẽ rơi và lúc ấy mình cũng sẽ chết.

- Bạn yêu quý, - Sue nói, mặt hốc hác cúi xuống gối, - nếu bạn không nghĩ về bản thân thì hãy nghĩ đến mình. Mình biết làm gì bây giờ?

Nhưng Johnsy không trả lời. Trên cõi đời này, cái cô độc nhất là một linh hồn đang chuẩn bị sẵn sàng để đi xa trên hành trình bí ẩn của nó. Ý nghĩ đó dường như chế ngự cô mạnh hơn khi từng tí, sợi dây ràng buộc cô với tình bạn, với thế gian này đang chùng ra.

Ngày trôi qua và ngay đến khi trong ánh hoàng hôn họ vẫn còn thấy chiếc lá trường xuân cô đơn bám chặt lấy thân cây tựa trên bờ vách. Và rồi khi bóng đêm tràn đến, gió bắc lại lồng lên trong lúc mưa vẫn nặng hạt quật vào cửa sổ, rơi xuống từ mái hiên thấp kiểu Hà Lan.

Lúc trời vừa hửng sáng, Johnsy tàn nhẫn yêu cầu kéo rèm lên.

Chiếc lá trường xuân vẫn còn đó.

Johnsy nằm nhìn nó hồi lâu. Lát sau cô gọi nhẹ Sue, đang nấu cháo gà cho cô trên cái bếp ga.

- Mình đúng là đồ tệ thật, Sudie à, - Johnsy nói. - Cái điều đã khiến chiếc lá cuối cùng kia nằm đấy đã cho mình thấy mình là kẻ nhẫn tâm như thế nào. Muốn chết là tội lỗi. Bây giờ bạn cho mình xin một tí cháo, ít sữa có pha tí rượng vang, và... khoan đã, đưa cho mình chiếc gương tay trước rồi sắp mấy cái gối quanh mình, mình sẽ ngồi dậy xem bạn nấu.

Một giờ sau cô nói:

- Sudie à, hôm nào đó mình hi vọng sẽ vẽ vịnh Naples.

Buổi chiều bác sỹ đến, khi ông về, Sue kiếm cớ để theo ra hành lang.

- Thoát rồi, - bác sỹ nắm bàn tay gầy guộc run run của Sue và nói. - Bằng tài chăm sóc khéo léo, cô đã chiến thắng. Bây giờ tôi phải đi thăm một ca khác ở dưới lầu. Behrman, tên ông ấy... tôi chắc đó là một nghệ sĩ. Cũng bị viêm phổi. Ông ấy đã già yếu mà bệnh tình thì lại nguy kịch. Không còn hi vọng, nhưng hôm nay ông ấy sẽ nhập viện để được chăm sóc kỹ càng hơn.

Hôm sau bác sỹ bảo Sue:

- Cô ấy đã qua cơn hiểm nghèo. Cô đã thắng. Bây giờ chỉ cần bồi dưỡng và chăm sóc chu đáo, thế thôi.

Chiều hôm ấy Sue đến bên giường, nơi Johsy đang nằm bình thản đan nhì nhằng chiếc khăn choàng len xanh thẫm và choàng tay ôm lấy người Johnsy với cả đống gối.

- Mình có chuyện kể đây, chuột bạch này, - cô nói. - Hôm nay, bác Behrman mất vì viêm phổi ở bệnh viện. Bác chỉ ốm có hai ngày. Sáng hôm đầu tiên, người gác cổng đã thấy bác quằn quại đau trong phòng của bác nơi tầng trệt. Giày và quần áo bác ướt sũng, lạnh băng. Họ không thể hình dung bác đã ở đâu vào cái đêm khủng khiếp như thế. Rồi khi họ tìm thấy chiếc đèn lồng, hãy còn sáng và cái thang đã bị kéo khỏi chỗ của nó, mấy chiếc bút lông vương vãi và một bảng pha mầu với xanh vàng hòa lẫn, và... nhìn ra cửa sổ kia, bạn, chỗ chiếc lá trường xuân cuối cùng ấy. Bạn không ngạc nhiên là tại sao nó chẳng hề rung rinh hay di chuyển khi gió thổi? Ồ, bạn thân thương ơi, đấy là kiệt tác của bác Behrman... bác ấy đã vẽ nó ở đó vào cái đêm chiếc lá cuối cùng rơi...
Về Đầu Trang Go down
https://c15ek13.1forum.biz
 
Tuyển tập chuyện cảm động P1
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tuyển tập chuyện cảm động P2
»  Câu chuyện mùa đông
» Câu chuyện tình yêu cảm động
» Update câu chuyện tình cảm động....
» Câu chuyện cô bé 16 tuổi làm cảm động cả trời đất

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
†™...[ Welcome to forum C15E-K13]...™† :: -`@'-Quê Hương-`@'- :: Diễn đàn tình yêu-
Chuyển đến